Nghiên cứu về tác động của bánh dầu Neem lên tuyến trùng và nấm bệnh ký sinh trên hồ tiêu

banh-dau-neem-cake

Tác động của bánh dầu Neem (Azadirachta indica A. Juss) lên tuyến trùng và nấm bệnh ký sinh cây hồ tiêu ở điều kiện in vitro.

Bánh dầu neem là sản phẩm của quá trình ép nhân hạt neem để lấy dầu. Trong quá trình ép lạnh để lấy dầu nguyên chất, phần dầu thừa còn lại trong phần nhân hạt khá lớn. Chất lượng của bánh dầu neem phụ thuộc vào lượng dầu thừa còn lại.

  Các hoạt chất sinh học từ dịch chiết bánh dầu Neem đã được đánh giá có tiềm năng lớn trong phòng trừ tuyến trùng nốt sần và các loài dịch hại khác của nhiều loại cây trồng. Trong nghiên cứu này các nồng độ dịch chiết khác nhau của bánh dầu neem đã được thử nghiệm khả năng diệt tuyến trùng (ấu trùng tuổi 2 thuộc giống Meloidogyne spp.) và ức chế 4 loài nấm bệnh như: Rhizoctonia solani, Sclerotium rolfsii, Collectotrichum spp. và Phytopthora capsici.

 Bánh dầu Neem là sản phẩm hữu cơ có nguồn gốc từ cây Neem

Bánh dầu Neem là sản phẩm hữu cơ có nguồn gốc từ cây Neem

  Độc tính của dịch chiết bánh dầu neem được biểu diễn bởi giá trị EC50 đối với ấu trùng tuổi 2 của tuyến trùng Meloidogyne spp. và các loài nấm bệnh thông qua phân tích Probit. Dịch chiết bánh dầu neem ở nồng độ 5% đã làm chết 100% cá thể IJ2 của Meloidogyne spp sau 24 giờ phơi nhiễm. Dịch nguyên chất bánh dầu neem ức chế cả 4 loài nấm bệnh. Giá trị EC50 của bánh dầu neem lên ấu trùng tuổi 2 của Meloidogyne spp và các loài nấm bệnh Rhizoctonia solani, Sclerotium rolfsii, Collectotrichum spp. and Phytophthora capsici tương ứng là 0.51, 0.74, 0.30, 0.51 và 4.33%.


1. Giới Thiệu

  Tuyến trùng ký sinh thực vật gây thiệt hại kinh tế lớn cho cây nông nghiệp trên toàn thế giới. Trong số đó có tuyến trùng nốt sần, đặc biệt là chi Meloidogyne gây hại ở vùng nhiệt đới cho nhiều loại cây, như cây tiêu đen. Trong quá khứ chỉ có hóa chất được sử dụng làm chất tiêu diệt tuyến trùng. Tuy nhiên, việc lạm dụng thuốc trừ sâu hóa học có tác động tiêu cực đến các loài côn trùng có lợi cũng như sức khỏe con người (Vũ Đăng Khánh, 2003). Do đó, để bảo tồn và thiết lập một hệ thống nông nghiệp có tính bền vững sinh thái, cần phải phát triển các phương pháp sinh học không chỉ kiểm soát quần thể tuyến trùng, mà cũng để đảm bảo năng suất, chất lượng của cây trồng và để giảm ô nhiễm môi trường.

Bánh dầu Neem kiểm soát tuyến trùng trong đất bảo vệ rễ cây

Bánh dầu Neem kiểm soát tuyến trùng trong đất bảo vệ rễ cây

  Bánh dầu neem (neem cake) là phần còn lại của quá trình ép hạt neem để có được dầu neem nguyên chất và nó được coi là một nguồn phân hữu cơ hữu ích. Loại phân bón này không chỉ cung cấp dinh dưỡng cho cây mà còn kiểm soát tuyến trùng nốt sần.

  Hơn nữa, bánh dầu neem (neem cake) còn có thể được sử dụng là chất ức chế để kiểm soát nhiều loài nấm gây bệnh (Singh et al., 1984; Sartaj et al., 1995; Vũ Triệu Man và Lê Lương Tế, 1998; Farooq và cộng sự, 2008). Hiện nay bánh dầu neem (neem cake) và nhiều dẫn xuất khác được sử dụng để kiểm soát tuyến trùng ký sinh thực vật (Musabyimana T. và R.C. Saxena, 1999; Nazir và cộng sự, 2007). Nhiều ấn phẩm cho thấy hoạt động sinh học của bánh dầu neem (neem cake) có khả năng giảm dân số của tuyến trùng hại rễ, chẳng hạn như Meloidogyne incognita trong đậu nành và Meloidogyne javanica trong cả cà chua và và cây đậu nành. Bột của hạt neem cũng được sử dụng để kiểm soát Meloidogyne arenaria và Pratylenchus enterrans trong cây cà chua. Một số tác giả cũng đã thử nghiệm bánh dầu neem trộn với các vật liệu khác như lúa mì, rơm rạ, mùn cưa và phân NPK để kiểm soát tuyến trùng hại rễ hiệu quả (Ramarao P., Usharaja, 1983; Randhawa N.S, B.S. Parmar, 1996).

Bánh dầu Neem là vỏ của hạt Neem sau khi ép lạnh lấy dầu

Bánh dầu Neem là vỏ của hạt Neem sau khi ép lạnh lấy dầu

  Do đó nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của bánh dầu neem để kiểm soát tuyến trùng hại rễ và tiềm năng đối kháng chống lại nấm phytopathogen.


2. Nguyên liệu và Phương Pháp

2.1 Vật liệu

2.1.1 Chuẩn bị dung dịch chiết xuất bánh dầu neem (neem cake)

  Hạt tươi được thu thập từ quả chín thu hoạch từ cây neem 4 tuổi (Azadirachta indica A. Juss) sau đó được làm sạch và sấy khô trong bóng râm đến độ ẩm 10-15%.

  Bánh dầu neem và dầu neem thu được đồng thời bằng cách sử dụng phương pháp ép lạnh bằng máy dầu thực vật (KOMET Model D 85 – 1G, Đức) từ việc nén hạt neem. Một phần của dầu neem được sử dụng để sản xuất thuốc trừ sâu sinh học và phần còn lại một phần đã được sử dụng làm tài liệu cho nghiên cứu này.

  100 gram bánh dầu neem đã được nghiền và ngâm thành 200 ml rượu 96 độ trong 4 giờ và sau đó được chiết xuất bằng cách lọc dung dịch 4 lần thông qua millipore tiệt trùng Bộ lọc 0,45m, phần còn lại đã bị loại bỏ.

  Tất cả các dịch lọc được trộn lẫn với nhau và hút chân không bằng cách quay dung dịch thu được 100 ml được lấy dưới dạng dịch chiết làm giàu neem (NEE) để thử nghiệm. Giải pháp chiết xuất này được sử dụng không pha loãng và pha loãng với nước khử trùng tinh khiết đến các nồng độ sau: 2,5, 5, 10 và 20% (VũVăn Đỗ, 2007).

2.1.2 Khai thác tuyến trùng

Nghiên cứu về tác động của bánh dầu Neem lên tuyến trùng và nấm bệnh ký sinh trên hồ tiêu

Tuyến trùng chưa trưởng thành ở giai đoạn thứ hai của loài Meloidogyne spp được lấy từ rễ cây tiêu đen ở huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông.

  Sử dụng phương pháp trích xuất khay Baermann bằng cách sử dụng sang với kích thước mắt lưới 0,5mm đưa vào đĩa petri (đường kính 90mm, cao 15mm) với giấy mềm trên đó. Rễ hạt tiêu đen được cho vào rây và thêm nước đến mức ngập nước rễ. Đĩa petri là được bảo hiểm và đưa vào phòng ươm tạo trong 48 giờ tại 28oC. Tuyến trùng sống xâm nhập qua rây và lắng xuống đáy đĩa petri (Nguyễn Ngọc Châu, 2003; Coyne et al, 2007).

2.1.3 Nấm gây bệnh

  Bốn loài nấm phytopathogen: như Rhizoctonia solani, Sclerotium rolfsii, Collectotrichum spp. và Phytopthora capsici đã được nhận từ Bộ môn Bảo vệ thực vật (Đại học Nông lâm nghiệp Hồ Chí Minh) và được duy trì trong PGA cho đến khi cần. 2.2 Phương pháp 2.2.1 Sinh học tuyến trùng rễ sần Mười ml không pha loãng của các nồng độ: 2,5, 5, 10 và 20% chiết xuất bánh neem được đổ riêng vào đĩa petri và 1 ml đình chỉ chứa khoảng 20 cá nhân J2 là thêm vào mỗi đĩa petri. Tất cả các phương pháp điều trị đã được nhân rộng ba lần. Các đĩa petri được ủ tại nhiệt độ phòng. Tỷ lệ tử vong được tính sau 6, 24 và 48 giờ. Tất cả các dữ liệu thu thập được phân tích bằng phân tích phương sai và phương tiện được phân tách bằng ít nhất Kiểm tra sự khác biệt đáng kể trong một phần mềm MSTATC.

2.2.2 Sinh học nấm

  Môi trường PGA (Khoai tây Glucose Agar) được sử dụng để duy trì môi trường nuôi cấy trên đĩa petri vô trùng. Không pha loãng và mỗi độ pha loãng của dung dịch chiết xuất bánh neem là được đưa qua bộ lọc màng (kích thước 0,45m) để tránh bất kỳ ô nhiễm vi khuẩn và nấm, sau đó 1ml dung dịch chiết thử nghiệm được chuyển đến khử trùng đĩa và 20 ml môi trường PGA nóng chảy (45oC) là đã thêm và giải pháp kết hợp hỗn hợp này trong PGA môi trường được giữ ở nhiệt độ mát mẻ. PGA vừa không có giải pháp chiết xuất bánh dầu neem được sử dụng làm đối chứng. Một sợi nấm đồng nhất thu được bằng cách giới thiệu 5- sâu đục lỗ thép không gỉ đường kính mm vào trung tâm của đĩa petri. Mỗi lần điều trị được nhân rộng ba lần. Các tấm được ủ ở nhiệt độ phòng trong 4 ngày. Sau thời gian ủ, hai đường kính vuông góc của nấm được đo tuyến tính bằng mm và giá trị trung bình đường kính đã được tính toán.

Tỷ lệ ức chế tăng trưởng được tính như sau:

Tỷ lệ ức chế tăng trưởng = x100

Dc

Dc – Dt

  Trong đó: Dc: đường kính khuẩn lạc trung bình của nấm trong vùng đối chứng thí nghiệm. Dt: đường kính khuẩn lạc trung bình của nấm trong điều trị thí nghiệm. 2.2.3 Quá trình dữ liệu Tỷ lệ tử vong của ấu trùng Meloidogyne spp. giai đoạn hai được xác định sau mỗi giờ cũng như tỷ lệ ức chế tăng trưởng của nấm. EC50 đối với tuyến trùng và IC50 đối với nấm được tính bằng Phương pháp phân tích Probit, dữ liệu được xử lý thông qua Microsoft Excel (Nguyễn Ngọc Kiêng, 1992).


3. Kết quả và Bàn luận

3.1 Tác dụng của bánh neem đối với Ấu trùng tuyến trùng hại rễ Meloidogyne spp. giai đoạn hai

  Bảng 1 cho thấy hầu hết các ấu trùng tuyến trùng hại rễ Meloidogyne spp đã chết sau 6 giờ khi sử dụng chiết xuất từ bánh dầu neem 5% hoặc nhiều hơn, và 100% tuyến trùng chết khi sử dụng chiết xuất bánh dầu neem ở mức 10% trở lên. Các tỷ lệ tử vong của ấu trùng tuyến trùng Meloidogyne spp. là 87% và 100% sau 6 giờ và 24 giờ tiếp xúc với nồng độ 5%, tương ứng. Ở nồng độ 2,5%, tỷ lệ tử vong của ấu trùng tuyến trùng Meloidogyne spp. là gần 80% sau 48 giờ.

Nghiên cứu về tác động của bánh dầu Neem lên tuyến trùng và nấm bệnh ký sinh trên hồ tiêu

  Những kết quả này chỉ ra rằng giải pháp chiết xuất bánh neem rất hiệu quả để kiểm soát tuyến trùng. Trong thực tế, bánh neem có chứa lượng dầu neem lớn trong đó chứa chất sinh học (azadirachtin, salannin, nimbin) và hợp chất phái sinh của nó thuộc nhóm triterpenoid, limonoid, vv đã được chứng minh là có chứa độc tính mạnh đối với tuyến trùng ký sinh thực vật (Keshav et al., 1996; Nazir Javed, 2008; Adegbite A.A., và S.O.Adesiyan, 2005) nhưng không gây hại cho vi sinh vật có lợi trong đất (Muhammad Abid, 1996).

  Dữ liệu trong bảng 2 cho thấy nấm phytopathogen Rhizoctonia solani đã bị ức chế bởi độ pha loãng 17% của NEE: Nước (1:30) và chiết xuất không pha loãng ban đầu dung dịch ức chế hoàn toàn R. solani (100%).

3.2 Hoạt tính chống nấm của bánh dầu neem trên nấm gây bệnh

Nghiên cứu về tác động của bánh dầu Neem lên tuyến trùng và nấm bệnh ký sinh trên hồ tiêu

  Đối với Sclerotium rolfsii, có sự tăng trưởng đặc trưng bởi các sợi trắng lan ra như các tia xung quanh và nó bao phủ gần như bề mặt đĩa petri chỉ sau 4 ngày (Hình 2). Tác dụng ức chế của dung dịch chiết pha loãng bánh dầu neem NEE: nước ở nồng độ 1:30 và 1:10 tương ứng là 36% và 69%.

  Khả năng ức chế 100% của các giải pháp NEE cũng đã được tìm thấy. Theo Ramarao (1983) bên cạnh bánh neem, dung dịch chiết xuất từ cây castoroil và bánh lạc cũng rất tốt để sử dụng cho kiểm soát nấm S. rolfsii trên cây lúa mì.

  Liên quan đến nấm phytopathogen, Collectionotrichum spp. phát triển bằng cách hình thành mút trong vật chủ và tốc độ phát triển khá thấp (Hình 2). Các tác dụng ức chế tương ứng là 32%, 45% và 62% với tỷ lệ pha loãng của NEE: nước là 1:30, 1:20 và 1:10 tương ứng. Dung dịch chiết xuất gốc (NEE) có thể ức chế loại nấm này tới 95%.

Nghiên cứu về tác động của bánh dầu Neem lên tuyến trùng và nấm bệnh ký sinh trên hồ tiêu

Nghiên cứu về tác động của bánh dầu Neem lên tuyến trùng và nấm bệnh ký sinh trên hồ tiêu

  Hình 2 cho thấy Phytopthora capsici phát triển và tạo ra các mảng của mạng nhện hoặc khuẩn lạc sao, phát triển khá chậm so với các loại nấm bệnh khác. Tuy nhiên, tác dụng ức chế của bánh neem không pha loãng chỉ là 67% và tác dụng ức chế giảm dần ở nồng độ thấp hơn trở thành 27% khi pha loãng NEE: nước là 1:10 và pha loãng hơn nữa không có bất kỳ hiệu ứng ức chế. Kết quả này tương ứng với những phát hiện của Jeyarajan et al. (1987), ngoài Phytopthora capsici, họ cũng đánh giá sự khác biệt của phân bón bổ sung, mùn cưa và

  Bánh neem trên đất chống lại Fusarium solani gây ra bệnh thối rễ ở cây đậu xanh. Singh và Vyas (1984) cũng đã nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại bánh áp lực như cây mù tạt, cây thầu dầu, cây neem và mahua đến Phytophthora parasitica và P. piperina. Các kết quả cho thấy hầu như tất cả các bánh dầu ức chế sự phát triển của các loại nấm thực vật.

  Kết quả nghiên cứu cho thấy bánh neem ức chế sự tăng trưởng của Sclerotium rolfsii hiệu quả nhất, tiếp theo là Rhizoctonia solani và Collotrichum spp. Tốc độ tăng trưởng của nấm thực vật Phytopthora capsici chỉ hơi ức chế bởi bánh dầu neem.

Nghiên cứu về tác động của bánh dầu Neem lên tuyến trùng và nấm bệnh ký sinh trên hồ tiêu

  Các kết quả trong Bảng 3 cho thấy giá trị EC50 cho ấu trùng tuyến trùng hại rễ Meloidogyne spp. giảm khi tang giá trị thời gian tiếp xúc cho thấy hiệu quả của bánh dầu neem tăng theo thời gian.

  Giá trị IC50 cho chiết xuất bánh dầu neem ức chế 4 loại nấm Rhizoctonia solani, Sclerotium rolfsii, Collectotrichum spp. và Phytophthora capsici. Các chiết xuất bánh dầu neem ức chế mạnh mẽ nhất tăng trưởng của Sclerotium rolfsii (0,30%) và ít hiệu quả tới sự phát triển của Phytophthora capsici (4,33%).


4. Kết luận

  Nghiên cứu này đã chứng minh rằng bánh dầu Neem nguyên chất ép lạnh có khả năng cao để kiểm soát ấu trùng tuyến trùng hại rễ Meloidogyne spp. và có thể ức chế sự phát triển của 4 loại nấm phytopathogen trên cây hạt tiêu đen (Pipernigrum L.). Kết quả cũng cho thấy bánh dầu Neem này chứa chất hoạt tính sinh học nhờ lượng dầu Neem còn lại trong bánh dầu -những chất này được coi là yếu tố chính để kiểm soát tuyến trùng và nấm trên cây tiêu đen.

Docneem biên dịch

Các bài viết liên quan:

Tinh dầu Neem – Giải pháp hữu cơ an toàn cho vườn hồng của bạn
📌Mua ngay tại đây: https://docneem.com/collections/all
– Tiki: https://bit.ly/docneem-tiki
– Shopee: https://bit.ly/docneem-shopee
– Lazada: https://bit.ly/docneem-lzd
📌Facebook: Tinh dầu neem
📞Hotline tư vấn: 092.8888.208 – 0988.22.1985